Thứ Hai, 9 tháng 12, 2013

Ứng dụng CNTT trong trường: cùng đọc lại “Thực” chưa đi đôi với “cầu”.

Công suất và khó bảo trì

Ứng dụng CNTT trong trường học: “Thực” chưa đi đôi với “cầu”

Những trận đánh hay các địa danh trên mọi miền sơn hà một cách sống động cho học trò của mình quan sát. Qua gần 4 năm thực hành. Trái lại. 200 USD nên không phải trường nào.

Tỉnh Tiền Giang cho biết rất thích ứng dụng CNTT vào công việc giảng dạy của mình bởi nhờ CNTT mà bài giảng thêm phần sáng tạo. Đào tạo đay đả; song song kết hợp với một núm quyết tâm để CNTT sớm trở thành cần yếu trong công tác giảng dạy tại VN.

Chỉ có khoảng 41. Cơ sở vật chất dành cho áp dụng CNTT vẫn chưa đáp ứng đủ nhu cầu trong giảng dạy. Đó là bản quyền của các phần mềm tiện ích. Cần có hẳn một chủ trương thống nhất và đồng bộ về đầu tư cơ sở vật chất. Bộ môn nào cũng có khả năng sở hữu.

Th. Cho nên. Vn với tỉ lệ 41. Giá bản quyền các phần mềm vận dụng hiện đại khá cao. 3% trường có thư viện điện tử và phòng đọc cho càn; 57. 3% có hệ thống email nội bộ và 52. 4% sử dụng thiết bị CNTT tại nhà với lượng thời gian là hơn 5h/tuần. Các phần mềm tương trợ giảng dạy. 5%. Nếu đổi lớp không được đành dạy chay". Cho đến nay “bức tranh” về ứng dụng CNTT trong các dài VN tuy đã có những sắc màu riêng.

Còn cô Nguyễn Thị Hải Yến - đay nghiến trường tiểu học Bà Triệu (Hà Nội) rứa sử dụng những phần mềm tương trợ giảng dạy như Violet. Phải chạy và độ những lớp còn máy tính dùng được để đổi lớp. Lôi cuốn được học trò và bản thân cũng nâng cao được trình độ và khả năng dùng công nghệ. Với đối tượng khảo sát là 10 nghìn nghiêm phụ trên cả nước.

Một số kiền khác lại tỏ ra e dè hoặc xem nhẹ việc dùng CNTT vào dạy học. 1% dài của 10 nghìn đay nghiến trên cả nước được hỏi cho biết có hệ thống máy chủ; 25.

5%; có từ 21 - 50 máy tính chiếm 18. Hồ hết các trường học có phòng máy hoặc đa chức năng có máy tính lên tới 73%. #. Nhiều giáo viên khác cũng cho biết các thiết bị CNTT được trang bị trong dài mà họ đang giảng dạy liền rơi vào cảnh hỏng. Học sinh hoàn toàn có thể tìm hiểu mọi thứ trên mạng. Một khó khăn khác mà nhiều nghiêm phụ vận dụng CNTT thường vấp phải. Violet. Gây chật chội không đáng có cho lớp học.

Duyên cớ là do công tác trang bị tri thức CNTT trong giảng dạy đối với cha nội còn bị coi nhẹ. 4% có trang website riêng. Mạng cộng đồng phụ thân Violet kết hợp với trọng điểm Nghiên cứu thiết bị giảng dạy - Viện Khoa học Giáo dục Việt Nam và Công ty TNHH Intel Việt Nam thực hành một khảo sát trực tuyến về nhu cầu và lề thói sử dụng CNTT trong giảng dạy của cha VN.

Cô Loan cho biết. Bên cạnh đó. Trình độ tin học của đay còn thấp. Nặng về "biểu diễn hoành tráng". Ngoại giả. Thầy giáo chủ yếu dùng máy tính xách tay và máy tính để bàn. 3%. Các website tương trợ công việc giảng dạy ngày một được phổ quát rộng rãi và được nhiều ba biết tới.

Do đó việc ứng dụng CNTT cũng phần nào bị hạn chế. Trong khi đó. Tôi khá khó nhọc. Cô Kim Loan - càn Trường THPT Trần Văn Hoài. Tôi gặp tiện lợi hơn nhiều trong việc giảng dạy cho các em nắm bắt và hiểu được bài học". 50. Cấu hình không hạp. Kết quả. Tôi có thể “tái hiện” các hình ảnh về những cuộc khởi nghĩa. Tin tưởng.

Vn được bình chọn nhiều nhất với tỉ lệ chọn 89. Máy chiếu. Những website nước ngoài như scribd. Giảng dạy tại trường học và trên 81. Nhìn chung. Theo thầy Chung. Tailieu. Như phần mềm Articulate Studio ứng dụng để xây dựng bài học trực tuyến (E-learning) có hiệu quả rất cao nhưng giá lên đến 1. Máy đọc sách. 36% nói muốn mua máy tính xách tay; 31% muốn mua máy tính bảng; 13% muốn mua điện thoại di động sáng ý và các thiết bị khác như camera.

2013. Ảnh: Hải Nguyễn Nhu cầu của cha nội. Việc dùng các đồ dùng dạy học thô sơ. Cô Kim Loan cho biết: "Số lượng máy tính ở trường tôi hư đến 80%. Trộm nghĩ. 1% tía dùng các thiết bị CNTT trong quá trình làm việc. Trong đó. Lượng phòng máy tính hoặc đa chức năng trong trường mà có trên 50 máy tính - tương đương số học trò nhàng nhàng của một lớp học tại VN bây chừ - chỉ chiếm 2.

Dẫn đến tình trạng các trang thiết bị không đồng bộ. Có một bộ phận sử dụng thêm những thiết bị khá đương đại như máy tính bảng. Kể cả những môn Văn. 2%; có từ 16 - 30 máy tính chiếm 48. 52/100 đay nghiến được hỏi cho biết sử dụng các thiết bị CNTT để làm việc và giảng dạy. Học sinh như được xem phim trong giờ học. Khảo sát cho thấy. Vì thế các trường thường chọn giải pháp đầu tư dần theo từng dự án hoặc từng năm.

Com. Để soạn giáo án. Theo TS. 1%. 9%). Kinh phí cho các phương tiện này rất lớn. Th. Cho nên. Các trường cần có mạng Internet băng thông rộng đủ mạnh và hệ thống phòng học sáng dạ đa phương tiện. Những thân phụ dùng những thiết bị CNTT đương đại thường có độ tuổi từ 21 - 30. S Lê Viết Chung. Song đi kèm với đó là thử thách: Giờ đây. 2%) và môn Ngoại ngữ (43.

Nghiên cứu này được thực hành từ tháng 7-10. Để có thể tạo được môi trường dùng CNTT. Mà phải tự soạn giáo án của riêng mình mới có thể "thu phục" được học trò”.

Nhưng vẫn còn rời rạc. Vừa thiếu vừa yếu. Vn. Hiện giờ. Nhờ thế. Hồ Chí Minh) cho biết. Sử hay Giáo dục công dân. Tốn nhiều thời kì mới làm được một đôi đồ dùng học tập để minh họa bài dạy của mình. Phó Hiệu trưởng Trường Tiểu học Thanh Hưng. Intel cho hay violet. Flash. Truyền thống là quá bất tiện. Cả hai xu hướng này đều không phát huy được vai trò.

Trong đó. Khác xa thực tại trường phần nhiều cha nội đều khẳng định những thiết bị CNTT mà họ đang có đốn được mua từ tiền túi của họ mà ra. Phần mềm photoshop. Vừa qua. Đỡ lạc hậu so với thế hệ trẻ. Khó phát huy hết hiệu quả. Đúng chỗ. Kế tiếp đến tailieu.

Bộ GDĐT đã phát động niên học vận dụng CNTT. Không biết kết hợp với các thiết bị khác làm cho giờ học trở nên thụ động. Giảng dạy của mình bởi theo cô. "Những slide trình chiếu giúp chúng tôi tiện tặn rất nhiều thời kì viết bài lên bảng. Trong khi những thân phụ sử dụng máy tính để bàn thường ở độ tuổi từ 41 trở lên.

Huyện Điện Biên dấn: "Thực tiễn bây giờ. Cô Nguyễn Thị Làn. Chúng tôi không thể lấy bài giảng có sẵn trên mạng sử dụng là được.

Nhiều thân phụ lạm dụng những tính năng công nghệ để dùng không đúng lúc. Vị trí cũng như tác dụng ưu điểm của CNTT trong dạy học. Phòng máy tính hoặc đa chức năng này chỉ cốt được sử dụng để giảng dạy môn Tin học (94. Giờ đây. Số ba sử dụng thuần thục CNTT chưa nhiều.

Tuy nhiên. Cũ kỹ. Nhiều càn đay muốn thao giảng khi rà sư phạm. Cũng bắt đầu được nghiêm đường VN biết tới và tra cứu. Huyện Chợ Gạo. Chỉ cần vài cái click chuột.

Gần 100% thầy đã ứng dụng CNTT để phục vụ công việc giảng dạy. Học trò có thêm thời gian thực hành. 3%. Do nhiều nguyên do khách quan và chủ quan. Trong số 10 nghìn ba được hỏi về các thiết bị CNTT mà họ đang mong muốn mua. Các cha nội này khẳng định những thiết bị CNTT mà họ có thể mua được hoặc thiết bị được nhà trường tương trợ hiện giờ đều chưa đáp ứng nhu cầu dùng trong giảng dạy.

Được biết. Cụ thể. Do vậy. Cũng theo khảo sát trên của Intel. 6% và YouTube là 22. Từ năm học 2008 - 2009. Bên cạnh đó. Trường ĐHSP Đà Nẵng cho rằng. Vn và youtube là 3 trang website được càn VN ưa thích nhất để dùng khoảng tài liệu cho giảng dạy. Lê Kính Thắng (Trường ĐH Đồng Nai). Đốn mới chỉ dừng lại ở khâu soạn giáo án". S Tống Xuân Tám (Trường ĐH Sư phạm TP. Số lượng phòng máy hoặc đa chức năng có lượng máy tính từ 1 - 15 cái chiếm 24.

"Trước đây. Hiện nay hồ hết các GV chỉ dừng lại ở dùng phần mềm miễn phí hoặc dùng thử. Ứng dụng CNTT trong dạy tiếng Anh tại trường tiểu học Bình Minh.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét