Tiếp đi tìm lời giải cho câu chuyện nông sản Việt, chúng tôi có cuộc trao đổi với PGS.TS Nguyễn Văn Bộ, Viện trưởng Viện Khoa học Nông nghiệp Việt Nam (VAAS – Bộ NN&PTNT).
PV - Ông đánh giá thế nào về chương trình thu mua tạm trữ lúa gạo Chính phủ đang thực hiện hiện thời với việc cấp vốn cho doanh nghiệp xuất khẩu thu mua tạm trữ gạo, với hy vọng đẩy giá lên và người nông dân có lãi?
 | PGS.TS Nguyễn Văn Bộ. |
PGS.TS Nguyễn Văn Bộ:Chủ trương của chương trình là đúng, nhưng việc triển khai chưa đồng bộ, tạm trữ phải trên cơ sở sản xuất ra, không phải tạm trữ qua nhặt nhạnh từ thương gia như hiện nay.
Tất các ngành sinh sản hàng hóa hiện thời đều cần có vùng nguyên liệu riêng, trong khi các Tổng công ty lương thực (được giao tạm trữ và xuất khẩu – PV) lại không tham dự vào quá trình sinh sản, như vậy không công bằng với người nông dân. Vì bây giờ doanh nghiệp chỉ khi ký được giao kèo bán mới quay về nước thu gom gạo, không bao giờ có thị trường tiêu thụ và nguồn cung nông phẩm ổn định.
Khi bán được là công của doanh nghiệp, ngành công thương nghiệp, còn nếu không bán được lại đổ lỗi cho ngành nông nghiệp sản xuất nông sản kém chất lượng. Trong khi các doanh nghiệp sẵn sàng mua gạo kém chất lượng với giá thấp và trộn với loại gạo tốt hơn để bán, nên VN chỉ dự thị trường gạo giá rẻ. Thiệt hại cuối cùng người dân cày phải gánh chịu.
Trong chuỗi giá trị hạt gạo, không thể để người dân cày tách biệt với lợi nhuận chung, vì phần sản xuất được lợi rất ít, lợi nhuận đốn hội tụ cho phần chế biến (xay xát, đánh bóng), thu nhặt và xuất khẩu, trong khi phần này người dân cày không được tham dự. Cần phải phân bố lại lợi nhuận. Đấy là bất công trong điều hành tuốt chuỗi sản xuất và xuất khẩu gạo.
Chính phủ đề ra định hướng người nông dân lãi 30%, nhưng các con số đánh giá gần đây đều không đạt được mức đó, chỉ được khoảng 20% nếu không tính công cần lao. Còn nếu tính công lao động, quản lý thì nông dân lỗ. Cần phải coi người nông dân như một doanh nghiệp, tốn hoài để hoạt động, như phí quản lý, cần lao, điện, nước… Nếu tính hết các tổn phí thì không có lãi.
Cách tính giá thành bây giờ cũng chưa hết, doanh nghiệp đưa ra giá thu mua trên cơ sở giá giao kèo bán, từ giá bán sẽ lùi lại phần lợi nhuận cho doanh nghiệp ra giá thu mua, và chỉ mua với giá đó còn không được thì dừng mua. Do vậy giá thành này phải cho đơn vị độc lập tính thay vì để doanh nghiệp xuất khẩu lúa gạo tính rồi trình lên như hiện nay.
Giờ cần đặt lại vấn đề đặt hàng nông phẩm bấy lâu chưa làm, Bộ công thương nghiệp hãy đặt hàng cho Bộ NN&PTNT sản xuất loại gạo gì, số lượng bao lăm, tiêu chuẩn ra sao… để nông nghiệp định hướng cho dân cày sinh sản, công thương có hàng đúng đề nghị để bán bán cho khách hàng. Bây chừ ta vẫn tách bạch hai khâu trên nên khi có công xuất khẩu thì công thương nghiệp hưởng, còn tội thì Nôn nghiệp chịu.
Nên vừa rồi phải hai Phó thủ tướng vào Đồng bằng sông Cửu Long để bàn về tiêu thụ nông phẩm, trước đây sản xuất khó, giờ sản xuất được lại không tiêu thụ nổi. Không chỉ có lúa gạo, còn nhiều mặt hàng nông sản khác cũng vậy.
PV - Có quan điểm cho rằng thực tế người nông dân bán thóc cho lái buôn, Chính phủ lại thực hành tạm trữ gạo chuẩn y daonh nghiệp, nên lợi nhuận từ chương trình người nông dân không được bao lăm, còn doanh nghiệp hưởng lãi lớn, ông nghĩ sao về câu chuyện này?
PGS.TS Nguyễn Văn Bộ:bấy lâu việc thu mua tạm trữ Chính phủ giao cho doanh nghiệp xuất khẩu bằng việc tài trợ vốn để thu mua, xây nhà kho tạm trữ. Nhưng mới rồi không làm được doanh nghiệp đòi giao về cho địa phương, nhưng địa phương đâu có kho chứa để tạm trữ. Khi có lợi anh nhận còn khi hết lợi thì anh đẩy về địa phương như vậy là không chấp thuận được.
Chưa kể còn cần cả một quá trình chế biến địa phương cũng không có.
Việc thu nhặt thóc rất ít đơn vị làm, chủ yếu là thương buôn, trong khi doanh nghiệp đốn thu nhặt gạo, cũng ít chế biến vì các đầu nậu chế biến là chính.  | Độc quyền xuất khẩu gạo, người nông dân lãnh đủ. |
PV - Theo ông có hay không tình trạng độc quyền trong xuất khẩu gạo, ông nghĩ thế nào về tình trạng động quyền bây chừ tới ích lợi của người nông dân?
PGS.TS Nguyễn Văn Bộ:Khẳng định có độc quyền thì khó, nhưng về hình thái là có.
Chính sách bây giờ đang có nhiều ưu đãi cho doanh nghiệp quốc gia. Nên cần phải minh bạch hơn, cần có tổ chức quản lý nhà nước can thiệp mạnh mẽ hơn trong vấn đề này. Còn để cho Hiệp hội lương thực – bản chất là các Tổng công ty lớn của nhà nước dự, nên các doanh nghiệp nhỏ, tư nhân khó dự được, kết cuộc người nông dân vẫn luôn luôn thiệt thòi.
PV - Với độc quyền như vậy, theo ông chính sách đưa ra có bị ảnh hưởng bởi ích nhóm không, đặc biệt trong việc thu mua tạm trữ gạo?
PGS.TS Nguyễn Văn Bộ:Chính sách phải tương đối độc lập, còn bây giờ mình để cho những người tham dự trực tiếp vào quá trình xuất khẩu gạo đưa ra chính sách, nên hẳn nhiên họ phải để quyền lợi của họ được ưu tiên trong chính sách đó.
PV - Ông đánh giá thế nào về khâu sau thu hoạch nông phẩm hiện giờ ở nước ta?
PGS.TS Nguyễn Văn Bộ:Khâu chế biến rõ ràng quá kém, trong khi khâu chế biến là quan yếu nhất, giá trị gia tăng của các mặt hàng nông phẩm nằm hết ở khâu này. Cần hướng tới khâu chế biến thay vì chỉ hướng tới sản lượng.
Ngoài ra, cần đầu tư cho khâu xây dựng thương hiệu nông sản, quảng bá ra thị trường thế giới.
PV - Ông có đề xuất giải pháp gì để giải quyết tình trạng trên?
PGS.TS Nguyễn Văn Bộ:Cần quy định đơn vị nào xuất khẩu nông sản phải có vùng vật liệu, bất kể đơn vị nào có vùng sinh sản là được xuất khẩu, đưa ra quy định như vậy sẽ bắt doanh nghiệp tham gia sản xuất, bảo đảm hết ngay tình trạng trên.
Nếu quy định như vậy rõ ràng đơn vị nào muốn có vùng sản xuất phải đầu tư, khi đầu tư phải tìm được thị trường ổn định, tiêu chuẩn sản phẩm rõ ràng, và phải san sẻ với người nông dân lợi nhuận, chứ không phải đứng ngoài cuộc sống của người dân cày như hiện thời. Như các doanh nghiệp trong ngành cà phê, cao su, mía đường… đang làm, mỗi nhà máy đều có vùng nguyên liệu riêng của mình, người dân cày xem như một cổ đông của doanh nghiệp, với đóng góp cổ phần bằng đất sản xuất, nên họ đều có lãi.
Vừa qua chúng ta huy động doanh nghiệp sản xuất giống, phân bón, thuốc bảo vệ thực vật làm cánh đồng mẫu lớn, trong khi đơn vị xuất khẩu lương thực không làm, nên đầu ra không có.
Bằng những quy định trên, nhà nước sẽ cho chính sách dồn điền, đổi thửa, chính sách cho xây dựng liên lạc, cho vay vốn xây dựng kho chứa, máy móc chế biến… thậm chí là một phần của chương trình tạm trữ lúa gạo. Nếu cứ để như hiện này có nói mãi cũng không giải quyết được.
PV – Xin cảm ơn ông!
|
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét